Lịch sử hoạt động HMS Narborough (K578)

Narborough đã dành phần lớn thời gian phục vụ cùng Đội hộ tống 15 trong cuộc chiến tranh khi tham gia hộ tống vận tải ven biển và hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại eo biển MancheBắc Hải.[1][3] Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện, nó vượt Đại Tây Dương để đi sang vùng quần đảo Anh, và gia nhập cùng Đội hộ tống 15 tại Swansea, chuẩn bị để tham gia Chiến dịch Neptune, hoạt động hải quân trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy.[8]

Lực lượng lên đường vào ngày 5 tháng 6, 1944 để hướng sang eo biển Manche, và hai ngày sau đó đã hộ tống bốn tàu đổ bộ hướng đến bãi Utah cách bãi Omaha khoảng 8 dặm (13 km). Tàu chở quân Susan B. Anthony (AP-72) bị trúng một quả thủy lôi lúc khoảng 08 giờ 00, và Narborough cùng với tàu frigate chị em Louis (K515) đã cặp bên mạn Susan B. Anthony và cứu vớt được tất cả binh lính thuộc Sư đoàn 90 Bộ binh Hoa Kỳ trên chiếc tàu chở quân trước khi nó bị đắm. Narborough bị hư hại nhẹ khi cặp bên mạn chiếc tàu chở quân, nên đã quay về Devonport để sửa chữa.[8]

Sang đầu tháng 7, Narborough tách khỏi Đội hộ tống 15 để làm nhiệm vụ tháp tùng bảo vệ cho ba tàu chở quân đi sang khu vực Bordeaux, và cho đổ bộ lực lượng tại vùng cửa sông Gironde. Đến giữa tháng 7, nó cùng tàu frigate chị em Inglis (K570) và một tàu hộ tống khác hướng sang Tây Ban Nha (đang giữ vị thế trung lập trong cuộc chiến) để hộ tống những tàu buôn Anh đang ẩn náu tại các cảng Bilbao, SantanderSan Sabestion quay trở về Anh. Hành trình quay trở về của Narborough bị trì hoãn do một trong những tàu nó hộ tống gặp trục trặc kỹ thuật nồi hơi.[8]

Quay về Devonport để tiếp nhiên liệu và tiếp liệu vào ngày 4 tháng 8, Đội hộ tống 15 phải ra khơi ngay sau đó để tuần tra chống tàu ngầm trong khu vực vịnh Biscay. Cho dù vùng biển này thường xuyên có tàu ngầm U-boat Đức hoạt động, lượt tuần tra của đơn vị đã không bắt gặp được đối thủ nào. Trong tháng 10tháng 11 Narborough tham gia thành phần hộ tống cho Đoàn tàu JW 61, một đoàn tàu vận tải Bắc Cực đi sang Murmansk, Liên Xô; trong chặng quay trở về tàu frigate Mounsey (K569) bị hư hại do trúng ngư lôi, và Narborough đã kéo con tàu chị em quay trở lại bán đảo Kola để sửa chữa.[8]

Sang tháng 2, 1945, Đội hộ tống 15 chuyển đến đặt căn cứ tại Devonport để làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực eo biển Manche và Bắc Hải nhằm đối phó các tàu E-Boat đối phương cho đến khi chiến tranh chấm dứt. Narborough hiện diện tại Belfast khi xung đột kết thúc tại châu Âu, nhưng nó phải lên đường đi sang Wilhemshaven để hộ tống bốn tàu U-boat đã đầu hàng đi đến Lisahally, và tiếp tục những nhiệm vụ khác nhau dưới quyền Bộ chỉ huy Plymouth. Nhiệm vụ cuối cùng nó thực hiện là kéo một tàu U-boat đi từ Lisahally đến Lenningrad; tuy nhiên thời tiết bất lợi và biển Baltic bị đóng băng khiến nó bị kẹt lại tại Liepāja, Latvia cho đến tháng 11, khi nó quay trở về Portsmouth.[8]

Narborough được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 2, 1946,[1][2][3] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 14 tháng 12, 1946.[1][2][3]